Bộ Tư pháp: Tọa đàm tham vấn dự thảo Đề án cơ chế thu hồi tài sản không qua kết tội, bảo đảm phù hợp với thực tiễn Việt Nam
Thứ Bảy, 20/09/2025, 08:13 [GMT+7]
Bộ Tư pháp vừa tổ chức Tọa đàm tham vấn dự thảo Đề án cơ chế thu hồi tài sản không qua kết tội, nhằm bảo đảm phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đây là đề án do Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp các bộ, ngành nghiên cứu tính khả thi và đề xuất xây dựng cơ chế thu hồi tài sản không thông qua thủ tục kết tội.
Theo Báo cáo Đề dẫn tại Toạ đàm, thu hồi tài sản liên quan đến tội phạm tham nhũng, kinh tế đã được đề cập xuyên suốt trong nhiều văn kiện, chỉ thị, kết luận của Đảng, như: Chỉ thị số 50-CT/TW, Chỉ thị số 04-CT/TW, Kết luận số 10-KL/TW, Kết luận số 05/KL-TW, Nghị quyết số 66-NQ/TW, Quy định số 287-QĐ/TW. Cùng với đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 164/2024/QH15, Viện KSNDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2025/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành điều 3, Nghị quyết số 164/2024/QH15 của Quốc hội về thí điểm xử lý vật chứng, tài sản trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một số vụ việc, vụ án hình sự. Đây là những cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng cho việc nghiên cứu đề án.
![]() |
Các đại biểu tham dự Tọa đàm |
Về cơ sở thực tiễn, công tác thu hồi tài sản ở Việt Nam thời gian qua đạt kết quả tích cực, tỷ lệ thu hồi cao hơn trước đây. Đáng chú ý, một số vụ việc lớn như Phan Sào Nam, Việt Á, Phúc Sơn, Thuận An… đã thu hồi được cả tài sản tẩu tán ra nước ngoài. Nhiều đối tượng đã tự nguyện nộp lại tài sản, thậm chí có vụ đạt tỷ lệ 100% như vụ án tại Công ty Tân Hoàng Minh. Theo thống kê, trước năm 2013, tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng chỉ khoảng 10%, giai đoạn 2013-2020 đã nâng lên hơn 26%. Riêng từ 2020 đến 1/5/2025, Thanh tra Chính phủ đã ban hành 65 kết luận thanh tra có nội dung kiến nghị liên quan đến việc thu hồi tiền, đất đai. Trên cơ sở kiến nghị của các cơ quan thanh tra,các cơ quan, đơn vị đã thu hồi về ngân sách Nhà nước số tiền hơn 6 nghìn tỷ đồng, 20 nghìn USD và hơn 9 nghìn ha đất.
Tuy nhiên, tỷ lệ thu hồi nhìn chung vẫn chưa đạt mục tiêu, còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Việc thu hồi chủ yếu dựa trên kết án hình sự nhưng hiệu quả chưa cao. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu cơ chế thu hồi tài sản không qua kết tội là cần thiết, vừa bảo đảm phòng, chống tội phạm, thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong thu hồi tài sản, vừa thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam.
Dự thảo Đề án gồm 5 phần: (1) Sự cần thiết, mục đích, yêu cầu, phạm vi và phương pháp nghiên cứu; (2) Một số vấn đề lý luận; (3) Kinh nghiệm quốc tế; (4) Phân tích, đánh giá các mô hình thu hồi tài sản không qua kết tội trong bối cảnh pháp luật Việt Nam hiện nay; (5) Đánh giá những thuận lợi, thách thức của cơ chế và đề xuất, kiến nghị. Nội dung nghiên cứu tập trung vào việc khảo cứu hệ thống pháp luật về thu hồi tài sản không qua kết tội của một số quốc gia để tìm hiểu các cơ chế, điều kiện, đối tượng áp dụng, trình tự, thủ tục. Đồng thời đánh giá các quy định hiện hành của Việt Nam, chỉ ra những bất cập, hạn chế, những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự. Trên cơ sở đó, đề án sẽ đề xuất các cơ chế thu hồi tài sản không qua kết tội và đánh giá tính khả thi, phù hợp của từng cơ chế và xây dựng lộ trình cụ thể để từng bước hình thành cơ chế này phù hợp với điều kiện, tình hình của Việt Nam.
Các ý kiến tham luận của đại biểu tham dự Tọa đàm tập trung đánh giá dự thảo Đề án có kết cấu, bố cục hợp lý, logic, làm rõ sự cần thiết xây dựng, cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế cũng như các quy định pháp luật hiện hành về thu hồi tài sản. Trong đó, Đề án đã tiếp cận và đánh giá toàn diện các cơ chế đang được áp dụng như thu hồi tài sản trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, qua hoạt động thanh tra, qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, qua kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức và qua hoạt động kiểm soát giao dịch đáng ngờ. Trên cơ sở đó, đề án đã chỉ ra thuận lợi, thách thức của cơ chế thu hồi tài sản không qua thủ tục kết tội, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp cụ thể nhằm từng bước hình thành cơ chế này tại Việt Nam.
P.V